Thứ Ba, 2 tháng 1, 2024

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong tình hình hiện nay

Tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh”, “giặc nội xâm”[1], là “nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ”[2], trở ngại lớn đối với sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước; gây mất niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Nhận thức được điều đó, Đảng ta luôn nhấn mạnh rằng công tác phòng, chống tham nhũng trong bất cứ thời đại nào cũng mang mục đích đảm bảo sự tồn vong của chế độ, giữ ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân đối với giai cấp cầm quyền.

Cuộc họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày 10-5-2023.

Công tác phòng, chống tham nhũng là một công tác thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị để đảm bảo hiệu quả của công tác này. Thời gian vừa qua, với công cuộc “đốt lò” ấn tượng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định trong công tác phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, với những ý đồ thâm độc của các thế lực thù địch từ trước đến nay vẫn luôn muốn chống phá đất nước ta nhằm hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, chúng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc về công tác phòng, chống tham nhũng của ta. Đứng trước những quan điểm sai trái, thù địch đó, chúng ta cần phải tỉnh táo, nhìn nhận một cách khách quan và đưa ra những luận cứ xác đáng để đấu tranh, phản bác lại chúng. 

Việc chống tham nhũng là một công tác vô cùng quan trọng để đảm bảo sự trong sạch, công bằng và phát triển bền vững của đất nước. Việc xử lý nghiêm các cán bộ, đảng viên có dính líu đến các vụ án tham nhũng không chỉ là để trừng phạt hành vi sai trái của họ, mà còn là để đánh giá, cải cách hệ thống chính trị, giúp cho Chính phủ hoạt động tốt hơn, cải thiện hành vi của người quản lý và bảo vệ quyền lợi của người dân. Việc chống tham nhũng không phải là một cuộc “đàn áp”, mà là một nỗ lực chung của toàn xã hội nhằm bảo vệ tài sản công và đảm bảo sự công khai, minh bạch của các tổ chức, cá nhân. Những luận điệu như “Làm nhiều, sai nhiều. Làm ít, sai ít. Không làm, không sai” chỉ thể hiện sự tiêu cực và thiếu trách nhiệm của những người đang sử dụng chúng. Chúng ta đang thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng một cách nghiêm túc, đồng thời tạo ra một môi trường làm việc công bằng, minh bạch và đầy đủ trách nhiệm để khuyến khích sự cống hiến của các cán bộ, đảng viên. Theo đó, chúng ta không thể để các thế lực thù địch đưa ra các luận điệu để hướng lái nới lỏng công tác phòng, chống tham nhũng. Cần phải duy trì một sự nghiêm khắc trong việc chống tham nhũng và đảm bảo các cán bộ, đảng viên có trách nhiệm của mình trong việc phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, cần tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của công tác này, giúp họ hiểu được tác động tích cực của việc phòng, chống tham nhũng đến cuộc sống và phát triển của đất nước.

 1. Hoạt động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian gần đây

Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch vẫn ngày càng chống phá quyết liệt và sử dụng những thủ đoạn hết sức tinh vi, gây ra những hậu quả nhất định cho ta, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thẳng thắn đánh giá: Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời[3]. Do đó, từ việc nhận diện những luận điệu sai trái, xuyên tạc về công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta của các thế lực thù địch, cần phải đi đôi với việc kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, phải: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”[4].

Đảng ta xác định công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh lâu dài và phải được triển khai thường xuyên, liên tục. Do đó, thời gian vừa qua, chúng ta đã chủ động đấu tranh với hoạt động này một cách tích cực nhất.

Góp phần vào hiệu quả công tác đấu tranh này phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của các phương tiện truyền thông trên không gian mạng. Chúng ta đã tích cực đấu tranh trên mặt trận truyền thông này một cách triệt để nhằm định hướng dư luận, tuyên truyền những thông tin chính thống đến đông đảo quần chúng, đập tan những âm mưu nhằm hướng lái công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của ta đi lệch khỏi quỹ đạo vốn có của nó. Theo đó, chúng ta đã xây dựng, sản xuất các sản phẩm, ấn phẩm, xuất bản phẩm về những nội dung lý luận liên quan đến công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng trên in-tơ-nét, các ứng dụng trên mạng xã hội. Trực tiếp xây dựng và phát triển các trang fanpage với mục đích định hướng dư luận, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng trên mạng xã hội; sử dụng các nickname tài khoản mạng xã hội tham gia các diễn đàn, truy cập vào các trang mạng của đối tượng viết bài phản kích dưới dạng các bình luận. Thông qua hoạt động này, chúng ta đã thực hiện nhiều chương trình, chuyên mục, bài viết phản kích các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc quan điểm sai trái, thù địch của đối tượng. Từ đó mà củng cố niềm tin của nhân dân vào chính quyền, luôn luôn lắng nghe, thấu hiểu những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân.

Bên cạnh đó, vai trò của báo chí trong việc định hướng dư luận, phản biện xã hội cũng đóng góp tích cực vào công cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng. Trên cơ sở công tác nắm tình hình, phát hiện các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng, chúng ta đã tiến hành tổ chức đưa tin để phản bác. Qua đó, các cơ quan thông tấn, báo chí đã tăng cường đăng cái bài viết mang tính chất phản bác lại, định hướng dư luận với những luận cứ thuyết phục nhất.

Có thể thấy công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu nhất định song vẫn còn một số hạn chế, bất cập cần khắc phục như: (i) Công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng đôi lúc còn chưa kịp thời, dẫn đến chúng quy chụp Đảng ta không dám nói, thừa nhận những luận điệu của chúng. Làm suy giảm niềm tin của quần chúng nhân dân; (ii) một số cán bộ trực tiếp đấu tranh, phản bác còn hạn chế về kỹ năng diễn đạt, viết bài phản bác, chưa thực sự đủ sức thuyết phục, “nghèo nàn” về luận cứ, luận điểm dẫn đến việc phản bác chưa thực sự hiệu quả với các luận điệu xuyên tạc, “mị dân” của thế lực thù địch; (iii) chưa phát huy hết vai trò của các cơ quan báo chí trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng. Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng với các cơ quan báo chí còn chưa thật sự đống bộ, liên tục và chưa có cơ chế phối hợp một cách hợp lý; (iv) chưa huy động tối đa vai trò của quần chúng nhân dân trong việc đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng.   

2. Một số đề xuất giải pháp, khuyến nghị

Trước những âm mưu và hành động của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong thời gian qua, Đảng ta đã tiếp tục nhấn mạnh: “Các thế lực thù địch chống phá ngày càng quyết liệt”[5]. Trên cơ sở nhận định trên, Đảng ta tiếp tục khẳng định sự quyết tâm, cũng như trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn: “Tích cực phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm”[6]. Vì thế, để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới, tác giả xin đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị cơ bản sau: 

Thứ nhất, Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới. Việt Nam đang trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ, đây cũng là tiền đề, điều kiện để các thế lực thù địch, các phần tử phản động tăng cường tuyên truyền, xuyên tạc, đưa ra những quan điểm sai trái, thù địch để chống phá Đảng, Nhà nước ta, đặc biệt chúng triệt để tấn công vào công tác phòng, chống tham nhũng của Việt Nam trong xuyên suốt thời gian vừa qua.

Thứ hai, tập trung đầu tư vào chương trình đào tạo và bồi dưỡng chuyên sâu về công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng cho cán bộ trực tiếp đấu tranh, phản bác; chú trọng hướng dẫn kỹ năng diễn đạt, viết bài phản bác. Đồng thời, cần thiết lập các chương trình đào tạo liên ngành để tăng cường sự hiểu biết và tư duy toàn diện về những luận điệu của các thế lực thù địch.

 Ba là, phát huy vai trò của các tổ chức cơ quan thông tấn, báo chí trong việc đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng. Thông qua các hoạt động của báo chí giúp tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng.

Bốn là, huy động quần chúng nhân dân tham gia vào đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng. Đây là lực lượng đông đào, góp phần thực hiện thắng lợi trên mọi mặt trận, do đó cần phải triệt để phát huy vai trò của quần chúng nhân dân vào công cuộc đấu tranh này. Mỗi quần chúng là một “chiến sĩ”, với việc được trang bị đầy đủ kiến thức, nhận diện một cách đầy đủ, chính xác về các luận điệu “mị dân” của thế lực thù địch thì quần chúng nhân dân hoàn toàn có thể đấu tranh, phản bác lại các quan điểm sai trái, thù địch này.

Có thể thấy, đất nước ta vẫn đang trong tiến trình hội nhập và phát triển, công tác phòng, chống tham nhũng vẫn luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của Đảng, các thế lực thù địch vẫn sẽ luôn “bấu víu” vào công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng ta để đưa ra các luận điệu “mị dân”, phủ nhận những thành quả mà ta đã đạt được trong công cuộc phòng, chống tham nhũng. Vì vậy, việc đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng vẫn sẽ luôn là công tác thường xuyên, liên tục của Đảng để từ đó tiến tới xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đảng cầm quyền./.

ST.

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về quốc phòng, an ninh theo tinh thần Cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

 Các quan điểm sai trái, thù địch về quốc phòng, an ninh là hết sức thâm độc, nguy hiểm, không thể coi thường, xem nhẹ vì nó liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng và liên quan đến bản chất của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Những quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới” cung cấp những luận cứ quan trọng đấu tranh chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch về quốc phòng, an ninh.

Cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân uỷ Trung ương.

Cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân uỷ Trung ương.

Ngày 18-7-2023, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật giới thiệu cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Cuốn sách được biên soạn công phu, khoa học, cô đọng các vấn đề cơ bản, thiết thực về quân sự, quốc phòng, cung cấp những luận cứ quan trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, thể hiện sự tâm huyết, trách nhiệm của Tổng Bí thư, Bí thư Quân ủy Trung ương trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam.

Cuốn sách gồm 39 bài viết, bài phát biểu, trả lời phỏng vấn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương; được trình bày theo từng nhóm vấn đề, thể hiện tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của người đứng đầu Đảng ta về lĩnh vực quân sự, quốc phòng ở hai phương diện cơ bản, có mối quan hệ biện chứng với nhau: Vấn đề đường lối, chiến lược quân sự, quốc phòng; Xây dựng Quân đội kiểu mới.

Tư tưởng chỉ đạo đường lối quân sự, quốc phòng trong Cuốn sách được thể hiện tập trung ở một số nội dung cơ bản: Khẳng định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, kế thừa, phát huy truyền thống “dựng nước đi đôi với giữ nước”; “giữ nước từ khi nước chưa nguy” của dân tộc. Có kế sách ngăn ngừa, loại bỏ các nguy cơ chiến tranh, xung đột, bảo vệ và giữ vững hoà bình, ổn định của đất nước. Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong thời kỳ mới; xây dựng các lực lượng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Tư tưởng chỉ đạo đường lối quân sự, quốc phòng trong Cuốn sách phản ánh bước phát triển tư duy lý luận của Đảng về đường lối quân sự và chiến lược quốc phòng, đặc biệt là vai trò lãnh đạo và năng lực hoạch định đường lối, chính sách quốc phòng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới của Đảng và Quân ủy Trung ương. Nội dung cuốn sách của Tổng Bí thư cung cấp những luận cứ quan trọng phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về quốc phòng, an ninh.

Nhận diện...

Hiện nay các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã dùng nhiều thủ đoạn chống phá ngày càng công khai, trực diện hơn, chúng triệt để lợi dụng mạng xã hội và một số báo, đài phát thanh tiếng Việt ở nước ngoài để xuyên tạc, bóp méo trắng trợn quan điểm, đường lối của Đảng về tăng cường quốc phòng, an ninh; những hoạt động đối ngoại, các sự kiện quan trọng trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Từ đó kích động, lôi kéo các phần tử bất mãn, cực đoan tạo lập lực lượng đối lập chống phá Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang. Một số luận điệu về quốc phòng, an ninh chúng thường sử dụng là:

Một là, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang, đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Đây là mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch. Chúng cho rằng “quân đội, công an do nhà nước nuôi dưỡng nên chỉ phục tùng nhà nước, không phục tùng đảng phái nào”. Chúng lấy dẫn chứng ở các thể chế chính trị tư sản với chế độ đa đảng, quân đội, công an không do đảng nào lãnh đạo... Dựa vào đó, chúng phủ nhận nguyên tắc “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt"; đòi bỏ quy định “lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Đảng" ở Điều 65 Hiến pháp năm 2013.

Hai là, xuyên tạc đường lối của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Về chức năng của Quân đội, Công an, các thế lực thù địch cho rằng chỉ nên xây dựng chức năng đội quân chiến đấu chứ không cần đến chức năng đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất. Chúng tỏ vẻ thân thiện góp ý rằng “Quân đội, Công an nhân dân Việt Nam không nên thực hiện sản xuất, lao động mà chỉ thuần túy làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; “Quân đội không làm kinh tế là sự đột phá về tư duy” và làm kinh tế thì “lợi ít, hại nhiều”... Những luận điệu đó nhằm xuyên tạc bản chất, truyền thống, chức năng của Quân đội, tách Quân đội khỏi sự gắn bó máu thịt với Nhân dân và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời hạ thấp vai trò của Quân đội trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, chúng còn có luận điệu tuyên truyền “lái” lực lượng vũ trang chỉ làm nhiệm vụ kinh tế, có kinh tế sẽ mua sắm vũ khí trang bị hiện đại, sẽ bảo vệ được Tổ quốc, giữ gìn an ninh trật tự... Các luận điệu này đều rất thâm độc, một mặt chúng muốn chuyển bản chất Quân đội, Công an ta thành đội quân “đánh thuê” không có mục tiêu lý tưởng, không phát huy nghệ thuật đánh giặc của cha ông ta, phụ thuộc vào các nước khác, mất bản chất giai cấp công nhân. Chúng muốn Quân đội, Công an chú trọng làm kinh tế mà bỏ qua nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, mất phương hướng mục đích và bản chất truyền thống tốt đẹp của lực lượng vũ trang nhân dân.

Ba là, xuyên tạc, bóp méo tình hình an ninh trật tự, gây mất ổn định ở một số địa phương; xuyên tạc lịch sử và tình hình biên giới. Quá trình giải quyết một số vụ việc có sự tham gia của lực lượng vũ trang, chúng cho rằng, chính quyền đang dùng “Công an, Quân đội để chống lại nhân dân” và xuyên tạc bản chất, mục đích, ý nghĩa rồi quy kết và cho rằng, thực chất “Quân đội, Công an là của Đảng, chứ không phải của Nhân dân mà cũng chẳng phải của đất nước", từ đó hòng gây mâu thuẫn nội bộ và làm mất lòng tin của Đảng, Nhân dân đối với Quân đội và Công an; chia rẽ tình quân dân; chia rẽ Quân đội với Công an.

Bốn là, xuyên tạc đường lối đối ngoại về quốc phòng, an ninh của Việt Nam. Xét về chính sách quốc phòng, Đảng, Nhà nước ta thực hiện chủ trương “bốn không” (không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào; không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam; không dựa vào nước này để chống nước kia; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế). Các đối tượng cho rằng, chính sách “bốn không” như trên là “tự trói tay chân mình"; là “không đủ khả năng để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ", là lạc hậu, lỗi thời, không phù hợp với thực tế, đi ngược lại với xu thế toàn cầu hóa....

Những thủ đoạn trên của các thế lực thù địch đặc biệt nguy hiểm, gây hoang mang, tạo sự hoài nghi trong nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, làm suy giảm niềm tin vào đường lối quân sự, quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc và phương hướng xây dựng Quân đội, Công an hiện đại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, tác động tiêu cực đến quá trình triển khai, thực hiện đường lối của Đảng về quốc phòng, an ninh; kìm hãm và gây bất lợi cho ta trong quan hệ quốc tế, đối ngoại quân sự, quốc phòng, an ninh và bảo đảm hòa bình cho sự ổn định, phát triển đất nước.

...Và đấu tranh

Để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đó đã có nhiều học giả, nhà nghiên cứu khoa học đưa ra những luận cứ, luận chứng rất sâu sắc và toàn diện. Và càng tuyệt vời hơn, khi đọc Cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chúng ta thấy được rằng, chính người đứng đầu Đảng ta đã đưa ra những luận cứ quan trọng để góp phần đấu tranh phản bác có hiệu quả với các quan điểm sai trái đã nêu.

1. Nội dung được Tổng Bí thư nhắc đến khá nhiều trong cuốn sách là kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội. Quan điểm này được Tổng Bí thư nhắc nhiều lần trong các bài viết “Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi và sự trưởng thành, phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam”, “75 năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng vững bước dưới lá cờ vinh quang của Đảng”, “Nắm vững thời cơ, vượt qua thách thức, tiếp tục thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”… Trong các bài viết, Tổng Bí thư cũng đưa ra các giải pháp để kiên quyết đấu tranh, làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch.

Chúng ta biết rằng, nhà nước và quân đội là sản phẩm của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vì vậy, quân đội mang bản chất giai cấp của nhà nước tổ chức và nuôi dưỡng nó. Không có nhà nước “phi giai cấp”, nên không có quân đội “phi chính trị". Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh, Quân đội, Công an đều nhằm bảo đảm cho Quân đội, Công an luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc; có sức mạnh chiến đấu cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống. Vì vậy, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải kiên định nguyên tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quốc phòng, an ninh, Quân đội, Công an”.

Theo đồng chí Tổng Bí thư, đây là nguyên tắc cốt tử, tiên quyết trong hoạt động quân sự, quốc phòng và quá trình trưởng thành, lớn mạnh của lực lượng vũ trang ta. Bởi vì: “Đảng không những đề ra đường lối quân sự, xác định phương hướng phát triển tiềm lực quân sự, quốc phòng của đất nước, xác định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và các chủ trương, giải pháp nâng cao sức mạnh chiến đấu của Đảng bộ Quân đội, mà Đảng còn lãnh đạo việc tổ chức hiện thực hóa quan điểm, đường lối xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”(1). Đồng thời, đồng chí Tổng Bí thư cũng nhấn mạnh, để giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, một vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay là phải đề cao tinh thần cảnh giác, chủ động, nhạy bén đẩy mạnh phản bác các luận điệu sai trái chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội của các thế lực thù địch; tỉnh táo, kịp thời xử lý các vấn đề phức tạp, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

2. Từ ngàn đời nay trong quá trình dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã có truyền thống xây dựng đội quân vừa chiến đấu, vừa sản xuất như chính sách “ngụ binh ư nông”, thực hiện “thực túc binh cường”, “quốc thịnh binh cường”, lúc thời bình sản xuất huấn luyện, khi có giặc thì là người lính xung kích cùng toàn dân đánh giặc. Năm 1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay. Người xác định nhiệm vụ của Quân đội là: “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng"; đồng thời, khẳng định Quân đội vừa chiến đấu, vừa công tác, vừa sản xuất, trong đó chiến đấu là nhiệm vụ chủ yếu. Ngày nay, kết hợp quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội là chủ trương hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Trong thời bình, Quân đội tham gia lao động sản xuất góp phần xây dựng nền kinh tế, phát triển đất nước, đúng với chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, tạo điều kiện thuận lợi để bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, “giữ nước từ khi nước chưa nguy”. Trong cuốn sách Tổng Bí thư nêu rõ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” là bảo vệ từ trước, phòng ngừa từ trước, chủ động chuẩn bị các điều kiện để bảo vệ vững chắc Tổ quốc ngay trong thời bình, khi đất nước chưa có chiến tranh, nguy biến.

Để bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, thì không chỉ tập trung tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh đơn thuần mà còn phải đẩy mạnh phát triển toàn diện các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, chăm lo xây dựng làm cho mình ngày càng mạnh lên, để giữ cho “trong ấm”. Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược và củng cố sự tin cậy chiến lược với các đối tác, nhất là các nước láng giềng, các nước lớn, đối tác chiến lược... để giữ cho “ngoài êm”, tạo nền tảng vững chắc để ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh, xung đột, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Đồng thời, các lực lượng, nhất là Quân đội cần chủ động, nhạy bén, nâng cao năng lực nghiên cứu, dự báo, thực hiện tốt chức năng tham mưu chiến lược với Đảng và Nhà nước về quân sự, quốc phòng. Kịp thời nhận diện, xử lý đúng đắn, hài hòa, linh hoạt đối tác, đối tượng quốc phòng; có đối sách xử lý phù hợp, hiệu quả các tình huống, các vấn đề biên giới, biển, đảo, nhất là Biển Đông, không để bị động, bất ngờ, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột “từ sớm, từ xa”.

3. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc là phải xây dựng được nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh. Đây là yêu cầu khách quan của sự nghiệp bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chứ không phải do ý muốn chủ quan của cá nhân hay tổ chức nào. Là một chủ trương chiến lược của Đảng ta, đồng thời cũng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Tư tưởng cốt lõi xuyên suốt chỉ đạo đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng của Đảng, Nhà nước ta là lấy xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Đây là điểm mấu chốt xuyên suốt trong toàn bộ Cuốn sách của đồng chí Tổng Bí thư. Bởi truyền thống đoàn kết, yêu nước của dân tộc, lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, “thế trận lòng dân” vững chắc chính là cội nguồn sức mạnh to lớn để dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách tiến lên phía trước. Do đó, trong bối cảnh hiện nay, phải luôn coi trọng phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết giữa các dân tộc, giữa các vùng, miền, giữa mọi giai tầng; đoàn kết giữa Dân với Đảng, giữa quần chúng với cán bộ, đảng viên, giữa quân với Dân, thực hiện “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” có như vậy mới xây dựng được “thế trận lòng dân” vững chắc.

Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị là làm cho kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất. Đảng phải lãnh đạo làm sao cho quân hùng, nước mạnh, dân tộc tự tin đi trên con đường đã chọn”(2).

4. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, khi các mối quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng, bên cạnh việc hợp tác cùng phát triển, giữa các quốc gia vẫn luôn tồn tại sự cạnh tranh với nhau. Suy cho cùng, chỉ có lợi ích quốc gia, dân tộc là tối thượng, là vĩnh viễn. Chính sách quốc phòng có vai trò đặc biệt quan trọng, quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Điều kiện tiên quyết là sức mạnh nội lực phải ở vị trí trọng tâm, không thể dựa dẫm, phụ thuộc, trông chờ vào sự cứu cánh bên ngoài. Việc Việt Nam thực hiện chính sách không tham gia liên minh quân sự không phải là hành động “tự trói tay chân” như các đối tượng vẫn rêu rao. Trong một thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, an ninh của Việt Nam không thể tách rời an ninh khu vực nói riêng và an ninh của thế giới nói chung. Hợp tác quốc phòng là một trong những yếu tố quan trọng để duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới, đồng thời cũng là một yếu tố quan trọng để thực hiện các mục tiêu quốc phòng của Việt Nam. Chính vì vậy, Việt Nam chủ trương mở rộng đối ngoại quốc phòng, tham gia ngày càng tích cực vào các hoạt động hợp tác quốc phòng, an ninh của khu vực và của cộng đồng quốc tế.

Tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt của Tổng Bí thư trong xây dựng chiến lược quốc phòng Việt Nam là “Bảo vệ nền độc lập, tự chủ của đất nước phải gắn với bảo vệ hòa bình”; bảo vệ hòa bình, giữ vững môi trường hòa bình ổn định để đất nước phát triển là mục tiêu tối thượng của bảo vệ Tổ quốc, là điều kiện căn cốt nhất để đất nước phát triển, là một giá trị thiêng liêng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Có bảo vệ được hòa bình, giữ vững môi trường hòa bình sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước ổn định, phát triển. Ngược lại, đất nước có phát triển, tiềm lực có dồi dào thì vị thế, uy tín của đất nước càng được nâng cao, là điều kiện căn cốt để bảo vệ hòa bình.

Chúng ta đã thấy rõ, các quan điểm sai trái, thù địch về quốc phòng, an ninh là hết sức thâm độc, nguy hiểm, không thể coi thường, xem nhẹ vì nó liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng và liên quan đến bản chất của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Những quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới” cung cấp những luận cứ quan trọng cũng là chỉ đạo, định hướng cho mỗi chúng ta phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch về quốc phòng, an ninh./.

ST.

Phòng, chống các biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên

Từ khi mới thành lập, Đảng ta đã ý thức sâu sắc về vai trò đặc biệt quan trọng của tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, Đảng luôn rất quan tâm đến công tác giáo dục, xây dựng tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng, lối sống cho cán bộ, đảng viên. 

Chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức

Cùng với tư tưởng chính trị thì đạo đức, lối sống là nền tảng và động lực tinh thần để phát triển xã hội. Đạo đức là gốc của mỗi con người. Nhờ chăm lo làm tốt công tác xây dựng Đảng, nhất là giáo dục đạo đức cách mạng, đa số cán bộ, đảng viên có quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, giữ gìn phẩm chất đạo đức, vai trò tiên phong, gương mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, động viên, khích lệ nhân dân vượt qua khó khăn, thách thức, đưa công cuộc đổi mới ở nước ta đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.

Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII.

Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII).

Tuy nhiên, hiện nay, vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang diễn ra sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” dẫn đến tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu nhân dân, trái với chuẩn mực đạo đức của người cộng sản “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, làm cho nhân dân bất bình, lo lắng. Như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn...”(1). Tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII), Đảng ta cũng nhấn mạnh: “Bước vào giai đoạn phát triển mới, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” còn diễn biến phức tạp”(2). Có thể nói, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là rất đa dạng, muôn màu, muôn vẻ. Tuy nhiên, biểu hiện tập trung nhất, cao nhất và nguy hiểm nhất của suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là tham nhũng chính trị, lệch lạc tư tưởng, băng hoại đạo đức và hủ bại về lối sống. Đây là những kẻ thù rất nguy hiểm của Đảng, cần phải loại bỏ.

Để đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thời gian qua các cấp ủy, tổ chức đảng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp, đạt nhiều kết quả quan trọng, cụ thể là:

Thứ nhất, thường xuyên chăm lo công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng văn hóa Đảng, coi xây dựng Đảng về đạo đức là “nền tảng”, là “cái gốc” cho Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Từng bước phát huy tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Tiếp tục khẳng định một trong những quan điểm chỉ đạo của Đảng là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh một cách toàn diện, trong đó có tăng cường và nâng cao hiệu quả xây dựng Đảng về đạo đức;  tích cực nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần Đảng ta là đạo đức, là văn minh cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Thứ hai, coi trọng nêu gương trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Nhiều tấm gương, điển hình về học và làm theo Bác trên tất cả các lĩnh vực đã góp phần quan trọng không chỉ trong xây dựng Đảng mà còn thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển, lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Thực hành nêu gương trở thành việc làm tự giác, thường xuyên, nếp văn hóa, đề cao ý thức, trách nhiệm, tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Việc đề cao trách nhiệm nêu gương góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên, củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng.

Thứ ba, tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng, tích cực nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Có thể thấy, giáo dục đạo đức cách mạng là một trong những công cụ hữu ích, góp phần hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cần thiết cho mỗi cán bộ, đảng viên. 

Thứ tư, thực hiện tốt phương châm “xây và chống”, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực. Trong đó, đã tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức. Kịp thời cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức, tạo ảnh hưởng lan toả trong Đảng và ngoài xã hội. Động viên cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, nhân cách, phẩm giá, duy trì lối sống trong sạch, lành mạnh, văn minh, nâng cao “sức đề kháng” trước những cám dỗ bởi vật chất, tiền bạc, danh vọng, tránh sa vào chủ nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ, thực dụng, tham nhũng….

Rõ ràng, xây dựng Đảng ta về đạo đức, lối sống trong giai đoạn hiện nay thực sự là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân, hoàn thành những trọng trách của mình trước nhân dân và dân tộc./.

ST.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của V.I.Lê-nin về công tác xây dựng Đảng nói chung và về công tác kiểm tra, kiểm soát, kỷ luật đảng nói riêng. Lý luận về kiểm tra, kỷ luật đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, được Đảng ta vận dụng có hiệu quả trong suốt quá trình cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo vấn đề kiểm tra, kỷ luật trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Người chỉ rõ: “Khi có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”[1]. Trong quá trình cách mạng, Đảng động viên toàn bộ lực lượng, thông qua tổ chức, thực hiện đường lối, chủ trương mà Đảng đã đề ra. 

Trong công tác kiểm tra thì chủ yếu là kiểm tra cán bộ thực hiện Điều lệ Đảng và nghị quyết của Đảng. Hồ Chí Minh cho rằng: “Mục đích lựa chọn cán bộ là dùng nhân tài cần phải hợp lý, chớ “dùng thợ mộc làm nghề thợ rèn”, và cho họ hiểu rõ mọi mặt các công việc họ phải phụ trách. Mà muốn biết sự động viên và thực hành ấy đã đến mức nào, thì phải có kiểm tra”[2].

Hồ Chí Minh cho rằng, nếu tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như chúng ta đã có ngọn đèn pha, bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm, khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ. Có thể nói rằng, chín phần mười khuyết điểm trong công việc chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra. Nếu tổ chức sự kiểm tra được chu đáo thì công việc của chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười, gấp trăm.

Kiểm tra bao giờ cũng đi liền với kỷ luật trong Đảng. Hồ Chí Minh coi: “Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ, đảng viên”[3]. Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Kỷ luật của Đảng là “kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”[4]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên càng có công thì càng phải khiêm tốn, không được “tự đặt mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng ngoài kỷ luật”[5]. Người yêu cầu đảng viên chẳng những phải giữ gìn kỷ luật của Đảng mà còn “phải giữ gìn kỷ luật của chính quyền, của cơ quan, đoàn thể cách mạng, của nhân dân”; họ “tưởng là đảng viên thì muốn làm trời làm đất thì làm”[6]. Các đảng viên, cán bộ đó “không biết kỷ luật của chính quyền, của đoàn thể, nhân dân và Đảng cũng là một”[7].

Theo Hồ Chí Minh, đối với mọi đảng viên cộng sản, khi nào và ở đâu cũng phải chịu sự phân công, quản lý của tổ chức đảng, phải hành động theo phạm vi kỷ luật của tổ chức, phải báo cáo, phải chấp hành nghị quyết, chỉ thị một cách nghiêm túc, đúng đắn, sáng tạo. 

Hồ Chí Minh yêu cầu những đảng viên giữ vị trí càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu và nếu mắc sai phạm càng phải chịu kỷ luật nghiêm khắc, không được châm chước, bao che cho nhau. Trong bất kỳ trường hợp nào, Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng và bình đẳng về mặt công dân trước pháp luật. Củng cố và tăng cường kỷ luật đảng là nhiệm vụ thường xuyên của mọi đảng viên và mọi tổ chức đảng. Tăng cường kỷ luật đảng không phải là để kỷ luật cho nhiều đảng viên, mà chủ yếu là để nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức, tinh thần nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị, nghị quyết cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. 

Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh đã để lại bản Di chúc lịch sử và dành những lời đầu tiên cho Đảng: “Trước hết nói về Đảng... Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Theo Người, tự phê bình và phê bình là phản ánh trung thực tinh thần dân chủ và sức chiến đấu của Đảng. Bởi vì: “...một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chân chính”[8].

Hồ Chí Minh yêu cầu các cấp lãnh đạo phải biết nghe, dám nghe và khuyến khích được nghe các ý kiến khác nhau, kể cả ý kiến khác với suy nghĩ lâu nay của mình. Người nhắc lãnh đạo các cấp phải: “Khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến... Nếu cán bộ không nói năng, không đề ra ý kiến, không phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có gì để nói, nhưng vì họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức không dám nói ra, do uất ức mà hoá ra oán ghét, chán nản”[9].

Hồ Chí Minh khẳng định mọi đảng viên có quyền trình bày ý kiến riêng của mình, đề đạt kiến nghị, tham gia giải quyết vấn đề. Song khi đã có nghị quyết của tập thể thì phải làm theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức, nói và làm theo nghị quyết của Đảng. Đó là quyền tự do phục tùng chân lý. 

Hồ Chí Minh cho rằng, thực tiễn cách mạng luôn vận động và phát triển. Đảng ở trong xã hội và cùng xã hội phát triển. Tuy nhiên, mỗi khi gặp tình hình mới, công tác mới... tư tưởng của một số cán bộ, đảng viên không khỏi bỡ ngỡ, lệch lạc, hoặc “tả”, hoặc “hữu’, đó là điều bình thường, cho nên thống nhất ý chí, thống nhất kỷ luật, tập trung lãnh đạo là việc cực kỳ cần thiết và cực kỳ quan trọng. Người thường chỉ dạy: “Nhiệm vụ của Đảng ta là một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ngoài lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Để làm tròn nhiệm vụ nhân dân giao phó cho Đảng, toàn thể cán bộ, đảng viên phải tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Trung ương, phải tuyệt đối chấp hành nghiêm túc mọi chính sách và nghị quyết của Đảng”[10]. 

Suốt chặng đường cách mạng của Đảng, việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng thể hiện chủ yếu trên ba mặt sau:

Một là, trong Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định của Đảng; 

Hai là, trong hoạt động thực tiễn của Đảng nói chung và của ủy ban kiểm tra, đội ngũ cán bộ kiểm tra nói riêng; 

Ba là, trong việc tổng kết, đánh giá công tác xây dựng Đảng, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng hằng năm và các nhiệm kỳ.

Những năm qua, việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng vẫn còn nhiều thiếu sót, hạn chế, yếu kém, bất cập. Khảo sát, nghiên cứu cho thấy, một số cấp uỷ, tố chức đảng, UBKT các cấp chưa nhận thức đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác này nên chưa tổ chức thực hiện có hiệu quả trong hoạt động kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của cấp mình. Có nơi, có lúc nhận thức được thì việc vận dụng còn máy móc, giáo điều, chủ quan, duy ý chí, dẫn đến có hành động nóng vội, giản đơn, chạy theo thành tích. 

Một số cấp uỷ và người đứng đầu cấp uỷ học tập và làm theo quan điểm: “Người lãnh đạo phải tự mình làm việc kiểm tra, mới đủ kinh nghiệm và oai tín”[11] của Hồ Chí Minh còn yếu, dẫn đến nhận thức về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng chưa đầy đủ nên chưa quan tâm đúng mức, đúng tầm đến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, thậm chí còn cản trở việc kiểm tra hoặc không chịu trách nhiệm khi kiểm tra. Bên cạnh đó, việc xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh mới, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.

Thực tiễn cho thấy, việc nhận thức, quán triệt, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kiểm soát, kỷ luật đảng có thể rút ra ba kinh nghiệm quý báu là: 

Thứ nhất, phải có trình độ nhận thức lý luận và năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn;

Thứ hai, phải có phương pháp đúng đắn, sáng tạo khi làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh;

Thứ ba, phải đề cao trách nhiệm cá nhân và tổ chức, nhất là trách nhiệm của cấp uỷ và người đứng đầu. Có bản lĩnh và dám chịu trách nhiệm. Có ý thức chính trị và đạo đức trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng là ý thức xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân.

Có thể khái quát về việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng hiện nay là: 

Xuất phát từ thực tế của Đảng, của đất nước và quốc tế ngày nay để chủ động học tập, nhận thức lại, bổ sung, phát triển và thực hành một cách sáng tạo “tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình” và những chân lý phổ biến của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kỷ luật đảng nhằm tổng kết thực tiễn và tiếp tục xây dựng lý luận công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong bối cảnh mới.

Theo đó, có thể tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:

Một là, các cấp uỷ, tổ chức đảng và UBKT các cấp cần nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng nhằm nắm vững và hiểu được những nội dung cốt lõi và phương pháp luận cơ bản. Trong đó, cần chú ý:

- Nắm tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng là nắm lập trường, quan điểm, phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng.

- Hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng không phải là giáo điều, “kinh viện”, nhớ thật nhiều sách, thuộc nhiều câu của Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng để trích dẫn “loè thiên hạ”, mà dùng lập trường, quan điểm, phương pháp Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề của thực tiễn đang đặt ra đối với công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng trong bối cảnh mới hiện nay. Lập trường của Hồ Chí Minh là lập trường cách mạng triệt để, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Quan điểm của Hồ Chí Minh là quan điểm khoa học, xuất phát từ thực tiễn, phát hiện quy luật và làm theo quy luật. Phương pháp của Hồ Chí Minh là phương pháp biện chứng. 

Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống những tư tưởng khoa học, cách mạng làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, trong đó có công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Đó không phải là những công thức, khuôn mẫu bất di, bất dịch, giáo điều, trong quá trình nghiên cứu, học tập, vận dụng, phát triển cần đặc biệt quan tâm, chú ý làm rõ một số vấn đề sau:

a) Những luận điểm nào của Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng trước kia đã đúng, bây giờ vẫn đúng và về lâu dài sau này vẫn đúng.

b) Những luận điểm nào của Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng trước kia đúng, nhưng điều kiện thực tiễn hiện nay đã thay đổi, không còn phù hợp, cần bổ sung, phát triển hoặc thay đổi.

c) Những luận điểm nào của Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng mà ngay lúc sinh thời, Hồ Chí Minh đã nhận thấy không thuyết phục, không có tính khả thi, hoặc đã thừa nhận là sai và đã sửa đổi nhưng những người nghiên cứu, giảng dạy, tuyên truyền, học tập, cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn vẫn chưa biết đến, biết hết.

d) Những luận điểm nào của Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng mà những người nghiên cứu, giảng dạy, tuyên truyền, học tập, cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn đã hiểu không đầy đủ, hoặc hiểu sai, hoặc hiểu theo cách hiểu không đúng.

Đó thực sự là những vấn đề lớn, không thể nóng vội làm ngay, cần dày công, kiên trì, quyết tâm nghiên cứu mới dần dần sáng tỏ được; đồng thời phải từ thực tiễn công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước mới có thể đi đến những kết luận đúng đắn được.

Hai là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp học tập và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng tăng tính cập nhật, tính thiết thực, tính hấp dẫn, tính chiến đấu, tính giáo dục, tính dẫn đường của lý luận, không bằng lòng với những kết luận có sẵn, không lặp lại đi, lặp lại những câu chữ, những mệnh đề của tư tưởng Hồ Chí Minh khi chưa hiểu thấu đáo quan điểm của Người, chống quy kết, chụp mũ, giáo điều, xét lại.

Ba là, các ban của cấp uỷ, UBKT các cấp phải nêu cao vai trò tham mưu, giúp cấp uỷ trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức vận dụng đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng vào hoạt động kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của cấp mình.

Bốn là, chủ thể và đối tượng kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng cần quán triệt sâu sắc, vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.

Năm là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước phục vụ công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.

Sáu là, xây dựng tổ chức bộ máy kiểm tra và đội ngũ cán bộ kiểm tra theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng trong bối cảnh mới hiện nay.

Bảy là, tăng cường và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận và tống kết thực tiễn về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Mở rộng và tăng cường đối thoại với các đảng cầm quyền ở các nước về công tác kiểm tra, giám sát. Phải bồi dưỡng cho được một đội ngũ cán bộ lý luận chính trị chuyên sâu, có trình độ cao, ngang tầm nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới để giúp Đảng trong việc xây dựng lý thuyết về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong bối cảnh mới./.

ST.